Đăng ngày:
Online Games u88
Công nghệ và đổi mới sáng tạo là một trong ba đột phá chiến lược Trong thời gian qua, Bộ Chính trị đã đưa ra nhiều quyết sách quan trọng nhằm tháo gỡ điểm nghẽn thể chế, tạo động lực để Việt Nam phát triển mạnh mẽ hơn, nhìn nhận về vấn đề này, Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng cho rằng chưa bao giờ cải cách thể chế và thúc đẩy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển quốc gia như hiện nay. Điều này thể hiện tư duy đột phá và quyết tâm của Đảng trong việc tìm kiếm động lực mới cho tăng trưởng, thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình và nâng cao vị thế đất nước. Một trong những điểm nổi bật của các quyết sách gần đây là cách tiếp cận tổng thể, hệ thống. Đặc biệt, Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 lần đầu tiên xác định khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là một trong ba đột phá chiến lược, cùng với hoàn thiện thể chế và phát triển nguồn nhân lực. Trong đó, hai chỉ đạo quan trọng của Bộ Chính trị được TS Dũng đánh giá cao là việc tháo gỡ điểm nghẽn thể chế và phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Theo đó, để khoa học, công nghệ có thể bứt phá, ông Dũng cho rằng cần phải rà soát, sửa đổi các chính sách lỗi thời, gỡ bỏ những ràng buộc từ tư duy quản lý hành chính cứng nhắc, đặc biệt trong các lĩnh vực đầu tư, tài chính và quản lý. Bên cạnh đó, Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh việc xây dựng các trung tâm đổi mới sáng tạo, viện nghiên cứu, khu công nghệ cao đạt chuẩn quốc tế, đồng thời khuyến khích doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư vào nghiên cứu và phát triển như một yếu tố sống còn trong cạnh tranh toàn cầu. Tiến sĩ Nguyễn Sỹ Dũng khẳng định những quyết sách này không chỉ thúc đẩy khoa học, công nghệ mà còn định hình mô hình tăng trưởng mới cho Việt Nam. Điều quan trọng hiện nay là cần triển khai quyết liệt, biến nghị quyết thành hành động cụ thể, tạo động lực thực tiễn cho sự phát triển đất nước. Nguyên phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội cũng cho rằng ba yếu tố tiên quyết thúc đẩy các quyết sách đột phá về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ở Việt Nam bao gồm: áp lực cạnh tranh toàn cầu, điểm nghẽn nội tại và quyết tâm chính trị. Hiện nay, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang định hình lại vị thế các quốc gia, với khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là trụ cột. Nếu không có những bước đi đột phá, Việt Nam có nguy cơ tụt hậu và bỏ lỡ cơ hội phát triển bền vững. Bên cạnh đó, mô hình tăng trưởng dựa vào lao động giá rẻ và khai thác tài nguyên đã chạm ngưỡng, trong khi năng suất lao động còn thấp. Thể chế quản lý khoa học, công nghệ vẫn tồn tại nhiều rào cản, cần được tháo gỡ để tạo động lực phát triển. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất vẫn là quyết tâm chính trị. Bộ Chính trị đã xác định khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là một trong ba đột phá chiến lược, thể hiện cam kết mạnh mẽ trong việc thúc đẩy chuyển đổi số, cải cách thể chế và giải phóng nguồn lực. Như vậy, sự thay đổi không chỉ đến từ áp lực bên ngoài hay nhu cầu nội tại, mà quan trọng nhất là ý chí và quyết tâm chính trị. Khi các quyết sách được triển khai quyết liệt, khoa học và công nghệ sẽ trở thành động lực thực sự giúp đất nước chuyển mình mạnh mẽ. Liên quan đến các yếu tố giúp thành công trong việc sáp nhập tỉnh, thành phố và bỏ cấp huyện, Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng cho rằng trước hết, cần hoàn thiện khung pháp lý bằng cách rà soát, điều chỉnh các tiêu chí về diện tích, dân số cũng như cơ cấu tổ chức sau khi sáp nhập. Đồng thời, cần có cơ chế pháp lý rõ ràng để đảm bảo quyền lợi của người dân, tránh phát sinh bất cập liên quan đến vấn đề đất đai, hộ khẩu và an sinh xã hội. Về tổ chức bộ máy hành chính, chính quyền cấp tỉnh và cấp xã cần được tái cơ cấu theo hướng tinh gọn, hiệu quả, tránh dư thừa nhân sự và chồng chéo chức năng. Quan trọng hơn, việc sáp nhập không được gây gián đoạn đến hoạt động cung cấp dịch vụ công, đảm bảo bộ máy vận hành ổn định và phục vụ người dân một cách tốt nhất. Bên cạnh đó, chuyển đổi số đóng vai trò quan trọng trong quá trình này, giúp giảm sự phụ thuộc vào bộ máy truyền thống, nâng cao hiệu quả quản lý và hỗ trợ người dân thông qua các dịch vụ công trực tuyến, cũng như hệ thống hành chính điện tử đồng bộ. Việc sáp nhập tỉnh, thành không chỉ là một quyết định hành chính đơn thuần mà đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ lưỡng nhằm đảm bảo bộ máy quản lý hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đồng thời hạn chế tối đa những xáo trộn trong đời sống xã hội. 63 đơn vị hành chính tỉnh, thành là quá nhiều Theo Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng, số lượng đơn vị hành chính hiện nay ở Việt Nam với 63 tỉnh, thành phố là quá nhiều, trong khi quy mô dân số và diện tích giữa các tỉnh, thành lại không đồng đều. Điều này dẫn đến bộ máy hành chính trở nên cồng kềnh, chi phí quản lý cao và nguồn lực bị phân tán. Vì vậy, việc sáp nhập các tỉnh, thành là cần thiết nhằm tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu quả quản lý và tối ưu hóa việc phân bổ ngân sách. Tuy nhiên, ông nhấn mạnh rằng sáp nhập không chỉ đơn thuần là giảm số lượng đơn vị hành chính mà quan trọng hơn là thiết kế một mô hình quản trị phù hợp, giúp chính quyền địa phương vận hành hiệu quả và phục vụ người dân tốt hơn. Quá trình này cần có lộ trình hợp lý, đảm bảo đồng bộ hóa dữ liệu quản lý và có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp cũng như người dân thích ứng với sự thay đổi. Bên cạnh việc giảm gánh nặng ngân sách, sáp nhập còn giúp các địa phương đạt quy mô đủ lớn để phát huy lợi thế kinh tế vùng, thu hút đầu tư mạnh hơn và thúc đẩy phát triển bền vững. Việc sáp nhập cấp tỉnh, thành và bỏ cấp huyện có thể giúp tinh gọn bộ máy hành chính, nhưng ông Dũng nhấn mạnh, nếu không có cơ chế thay thế hợp lý, sẽ tạo ra khoảng trống trong quản lý. Vì vậy, theo ông, trước hết, cần đẩy mạnh phân cấp cho cấp xã và tỉnh, trong đó cấp xã được nâng cao năng lực quản lý, còn cấp tỉnh đảm nhiệm vai trò điều phối và giám sát một cách hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, ứng dụng khoa học công nghệ và phát triển chính quyền điện tử là giải pháp tối ưu giúp kết nối, xử lý công việc nhanh chóng và giảm sự phụ thuộc vào cấp trung gian. Ngoài ra, việc điều chỉnh nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan quản lý cũng rất quan trọng để tránh chồng chéo, nhưng vẫn đảm bảo phục vụ người dân một cách hiệu quả. Bàn về nguy cơ các địa phương vùng sâu, vùng xa bị bỏ rơi sau khi sáp nhập hoặc bỏ cấp huyện, Nguyên phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội cho rằng cần có những giải pháp dài hạn để bảo vệ quyền lợi của người dân. Một trong những biện pháp quan trọng là tăng cường phân quyền cho cấp xã, trao thêm quyền tự chủ, nguồn lực và nhân lực để cấp này có thể đáp ứng tốt hơn nhu cầu thực tế. Đồng thời, việc đầu tư mạnh vào hạ tầng giao thông kết nối và đẩy mạnh chính quyền điện tử sẽ giúp người dân, đặc biệt ở các khu vực xa xôi, tiếp cận dịch vụ công thuận tiện hơn. Ông cũng nhấn mạnh sự cần thiết của một cơ chế giám sát chặt chẽ nhằm lắng nghe phản ánh của người dân và điều chỉnh kịp thời để tránh những bất cập trong thực tế. Về vấn đề sắp xếp cơ cấu tổ chức và nhân sự khi thay đổi đơn vị hành chính, ông cho rằng quá trình chuyển đổi cần được thực hiện một cách bài bản để hạn chế tối đa sự xáo trộn trong bộ máy nhà nước và giảm tác động tâm lý đối với cán bộ, công chức. Để quá trình chuyển đổi diễn ra suôn sẻ, tiến sĩ Dũng đề xuất cần có lộ trình rõ ràng, minh bạch, trong đó việc sáp nhập phải được công khai thông tin để cán bộ, công chức có thời gian thích ứng. Ngoài ra cần phải có phương án bố trí nhân sự hợp lý, tránh tình trạng dư thừa hoặc mất động lực làm việc. Với những cán bộ dôi dư, có thể áp dụng chính sách đào tạo lại, điều chuyển hoặc hỗ trợ nghỉ hưu trước tuổi. Cuối cùng, cần đảm bảo hoạt động hành chính không bị gián đoạn, bằng cách xây dựng quy trình chuyển đổi hợp lý và ứng dụng công nghệ để duy trì hiệu quả quản lý. ‘Trái ngọt’ 30.000 tỷ đồng mỗi năm miễn học phí Tổng Bí thư Tô Lâm từng nhấn mạnh, việc “Sắp xếp, tinh gọn bộ máy để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống nhân dân” và mới đây, ngày 28/2, Bộ Chính trị đã quyết định miễn giảm học phí cho học sinh từ cấp mầm non đến phổ thông trên toàn quốc. Theo Tiến sĩ Dũng, quyết định miễn giảm học phí cho học sinh từ cấp mầm non đến phổ thông trên toàn quốc là một chính sách có ý nghĩa lớn, thể hiện cam kết của Đảng và Nhà nước trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Chính sách này đặc biệt quan trọng trong việc đầu tư vào giáo dục, vốn là nền tảng cho sự phát triển bền vững của quốc gia. Ông cho rằng đây có thể được xem là một trong những “trái ngọt” đầu tiên từ chủ trương tinh gọn bộ máy hành chính, giúp tiết kiệm ngân sách và tập trung nguồn lực cho các lĩnh vực thiết yếu. Khi bộ máy quản lý vận hành hiệu quả hơn, ngân sách được phân bổ hợp lý, Nhà nước có thêm dư địa tài chính để thực hiện các chính sách an sinh xã hội có tác động trực tiếp đến người dân. Ngày 28/2, sau khi nghe báo cáo của Chính phủ về khả năng cân đối tài chính trong và sau quá trình tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, Bộ Chính trị quyết định thực hiện miễn toàn bộ học phí cho học sinh từ mầm non đến hết trung học phổ thông công lập trên phạm vi cả nước. Thời điểm thực hiện từ đầu năm học mới 2025-2026 Theo tính toán của Bộ GD-ĐT, ngân sách nhà nước cần chi khoảng 30.000 tỷ đồng mỗi năm học để thực hiện miễn học phí cho toàn bộ học sinh công lập từ bậc Mầm non đến Trung học phổ thông. Việc miễn giảm học phí không chỉ giúp giảm gánh nặng tài chính cho các gia đình mà còn tạo điều kiện để học sinh có cơ hội tiếp cận giáo dục tốt hơn, qua đó nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tăng cường năng lực cạnh tranh của Việt Nam trong tương lai. Phân tích thêm về những tác động của cải tổ hành chính, tháo gỡ các điểm nghẽn thể chế, ông Dũng nhận định rằng nếu được thực hiện hiệu quả, Việt Nam sẽ đạt được nhiều kết quả quan trọng. Trước hết, bộ máy hành chính sẽ tinh gọn hơn, hoạt động minh bạch và hiệu quả hơn, giúp tiết kiệm chi phí và nâng cao trách nhiệm giải trình. Cải cách thủ tục hành chính cũng sẽ tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, cải thiện môi trường đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nguồn lực tiết kiệm được từ việc tinh giản bộ máy có thể tái phân bổ vào các lĩnh vực quan trọng như giáo dục, y tế và phát triển hạ tầng, mang lại lợi ích trực tiếp cho người dân. Về dài hạn, ông cho rằng cải cách hành chính sẽ góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, giúp Việt Nam phát triển nhanh và bền vững. Việc xây dựng một nền hành chính hiện đại với sự hỗ trợ mạnh mẽ của công nghệ số sẽ giúp giảm thiểu tình trạng quan liêu, nâng cao chất lượng dịch vụ công và tạo sự thuận tiện tối đa cho người dân, doanh nghiệp. Quan trọng nhất, đời sống của người dân sẽ được nâng cao nhờ hệ thống phúc lợi xã hội mở rộng, chất lượng dịch vụ công được cải thiện và sự phát triển đồng đều giữa các vùng miền. Ông khẳng định rằng cải tổ hành chính không chỉ đơn thuần là tinh giản bộ máy, mà còn là chìa khóa để thúc đẩy tăng trưởng, nâng cao năng lực quản trị quốc gia và xây dựng một nền hành chính hiện đại, hiệu quả, phục vụ sự phát triển bền vững của đất nước. Liên quan đến việc học hỏi kinh nghiệm các nước phát triển, từng thành công trong mô hình quản lý hành chính tinh gọn, hiệu quả, Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng cho rằng yếu tố con người đóng vai trò then chốt trong thành công của cải cách hành chính, và Việt Nam có thể học hỏi từ nhiều mô hình quản trị nhà nước hiệu quả trên thế giới. Trong đó, ông đặc biệt ấn tượng với ba mô hình sau: Thứ nhất là mô hình hành chính công của Singapore. Thành công của quốc gia này đến từ một bộ máy hành chính tinh gọn, hoạt động hiệu quả với đội ngũ công chức có năng lực cao, được tuyển chọn kỹ lưỡng và hưởng chế độ đãi ngộ tốt. Bài học quan trọng Việt Nam có thể rút ra là cần xây dựng một nền công vụ chuyên nghiệp, minh bạch và dựa trên năng lực thực chất, thay vì chỉ dựa vào thâm niên hay bằng cấp. Thứ hai là mô hình chính quyền điện tử của Estonia. Estonia hiện là một trong những quốc gia đi đầu về chính phủ số, với hơn 99% dịch vụ hành chính được thực hiện trực tuyến. Thành công của mô hình này phần lớn đến từ sự chủ động của đội ngũ lãnh đạo và cán bộ công chức trong việc đổi mới, áp dụng công nghệ. Theo Tiến sĩ Dũng, Việt Nam có thể đẩy mạnh chuyển đổi số, nâng cao năng lực của công chức để vận hành hệ thống chính quyền điện tử một cách hiệu quả, giúp cải thiện chất lượng phục vụ người dân. Thứ ba là mô hình quản trị linh hoạt của các nước Bắc Âu như Đan Mạch và Thụy Điển. Những quốc gia này đề cao tính tự chủ và trách nhiệm của cán bộ công chức, đồng thời thiết lập hệ thống giám sát chặt chẽ để đảm bảo hiệu quả thực thi chính sách. Ông cho rằng Việt Nam có thể học hỏi mô hình này bằng cách tăng cường phân cấp, trao quyền nhiều hơn cho địa phương, song song với cơ chế kiểm soát minh bạch, hiệu quả. Tựu trung, Tiến sĩ Dũng nhấn mạnh rằng điểm chung của những mô hình quản trị thành công là con người – những cán bộ công chức có năng lực, tinh thần phục vụ cao, làm việc trong một hệ thống minh bạch và linh hoạt. Do đó, nếu muốn cải cách hành chính hiệu quả, Việt Nam cần đặt con người vào vị trí trung tâm, với chính sách tuyển dụng, đào tạo, đãi ngộ và đánh giá công chức dựa trên hiệu quả thực tế. Ảnh minh họa: Việt Hùng/Nhịp sống thị trường Chi khoảng 30.000 tỷ đồng mỗi năm để miễn học phí cho hơn 23 triệu học sinh ngay từ năm học tới “Trung Quốc vươn mình với Kế hoạch Ngàn người tài, Việt Nam học theo được không?” Từng có cơ hội nhận mức lương hàng triệu USD ở nước ngoài nhưng Giáo sư Trương Nguyện Thành đã từ chối và về cống hiến cho đất nước sau hơn 40 năm thành danh trên đất Mỹ. if admicroAD.unit.push { admicroAD.show });Ảnh minh họa: VGP
Ảnh minh họa: Tri thức trẻ