u88 Về đây nghe tích sử Đà Nẵng Online

Đăng ngày:

Đà Nẵng cuối tuần

.、Làng quanh chân sóng

Về đây nghe tích sử

Thứ Bảy, 15/03/2025, 15:33 [GMT+7]

Chia sẽ、Facebook、Linkhay、Google Bookmarks

Twitter、Gửi tin qua Email

In bài viết này

.、.、.、Có lẽ không đâu như Nam Ô, dù đời sống biến dịch ra sao vẫn giữ được hình ảnh một làng chài nhỏ nằm nép mình dưới chân núi Hải Vân. Bởi lẽ, ngoài diện tích có phần khiêm tốn, làng biển ấy còn chất chứa bao trầm tích lịch sử, nơi những câu chuyện từ xa xưa vẫn còn vẹn nguyên trong ký ức người dân.

Hình ảnh lễ tế tiền hiền làng Nam Ô tại Đình Nam Ô hằng năm. Ảnh: T.Y

Dấu tích còn đó

Men theo con đường nhỏ chạy dọc bờ biển Nam Ô, dễ dàng bắt gặp nhiều ngôi miếu cổ rêu phong, nơi lưu giữ những câu chuyện về thuở cha ông khai hoang, lập làng hơn 700 năm trước. Ông Lê Văn Cưu, Trưởng ban tổ chức lễ hội cầu an và lễ tế âm linh làng Nam Ô bảo rằng đây là vùng đất thiêng. Cạnh ghềnh đá Nam Ô, cách mép nước chừng trăm bước chân có một ngôi mộ được người dân địa phương tôn kính gọi “Mộ ngài tiền hiền”. Ngôi mộ được bao quanh bởi dãy tường thấp cùng hai tượng hổ ngồi chầu ngay lối vào. Giữa sân chầu đặt một lư hương cùng văn bia khắc dòng chữ “Hoa Ổ xã phụng thượng niệm Tiền hiền chi Thần vị”. Chỉ tay vào văn bia, ông Cưu nói tên “Hoa Ổ” khắc trên văn bia chính là tên gọi cũ của làng Nam Ô.

Dân làng tin rằng, vị tiền hiền làng Nam Ô là một tùy tướng nhà Trần hy sinh trong hành trình giải cứu Huyền Trân Công chúa khỏi tập tục tuẫn tiết theo chồng năm Đinh Mùi 1307. Tương truyền, khi về tới Nam Ô, đoàn quân giải cứu công chúa bị bao vây bởi lính Champa. Lúc này, viên tùy tướng đã quyết định ở lại Nam Ô chỉ huy 200 quân đánh chặn để tướng Trần Khắc Chung dùng thuyền nhỏ đưa Công chúa Huyền Trân ra khơi trở về Đại Việt.

Để tưởng nhớ vị tướng, dân làng chôn cất, lập miếu thờ, phong làm tiền hiền của làng. Ngoài ra trong một số tài liệu được ghi chép bởi Hội đồng chư phái tộc làng Nam Ô, mộ tiền hiền còn là nơi thờ vọng các vị trưởng làng. Các đời con cháu sau này tiếp tục tôn tạo, trùng tu và lấy ngày 24-6 âm lịch hằng năm tổ chức lễ giỗ tiền hiền với bài tế có 2 câu thơ cổ được lưu truyền từ đời này sang đời khác “Cổ vân lôi ư, tam cấp vũ môn, ninh kiến hà trừng thiên lý/ Chiêm phong lãng ư, kỷ trùng hoàng hải, vĩnh khang thốn tức thôn kình” .

Trong cụm “Nam Ô thất bảo” cùng lúc được xếp hạng di tích cấp thành phố năm 2020 thì lăng Ông, giếng Lăng và miếu Âm linh làm thành “bộ tam tâm linh” nằm cạnh nhau dọc bãi biển. Theo ông Cưu, lăng Ông được dân làng dựng trên đền thờ Hải thần của người Chăm trước đây để thờ thần Nam Hải . Sát bên lăng có một giếng Chăm bằng đá, gọi là giếng Lăng, quanh năm cho nguồn nước thanh mát, ngọt lành.

Cạnh lăng Ông về phía Bắc là miếu Âm linh, nơi tưởng niệm các anh hùng nghĩa sĩ tử vong trong trận đầu chống liên quân Pháp - Tây Ban Nha xâm lược Đà Nẵng năm 1858. Miếu Âm linh cũng gắn với tục truyền, rằng điều kiêng kỵ nhất với ngư dân khi ra khơi là làm rơi đồ xuống biển. Vì vậy, trong chuyến hải trình, nếu ngư dân nào đánh rơi đồ, ngay khi trở về đất liền phải đến miếu Âm linh vẽ lại món đồ bị mất lên giấy, làm lễ cúng rồi mang ra bờ biển đốt thành tro. Nghi thức này giúp giải đi vận xui cho người dân chài biển.

Đa dạng tục thờ Mẫu

“Nam Ô thất bảo” - được xem là 7 báu vật theo cách gọi của dân làng Nam Ô gồm đình Nam Ô, lăng Ông, miếu Âm linh , Nghĩa trủng Nam Ô, miếu Bà Liễu Hạnh, miếu Bà Bô Bô, giếng Lăng.

Câu chuyện xa xưa được kể bên ghềnh sóng Nam Ô không chỉ nhắc tới dấu tích tiền nhân, mà phảng phất những huyền sử dân gian liên quan đến đời sống văn hóa, tâm linh người dân miền biển. Trong đó, ngôi miếu thờ bà Liễu Hạnh - một trong tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt Nam - được xem là chốn linh thiêng bậc nhất làng chài. Miếu bà tọa lạc trên một khu đất cao, mặt hướng ra biển.

Sống cạnh miếu bà, bà Nguyễn Thị Mai kể từ xa xưa, miếu bà đã là nơi dân làng tìm đến cúng bái mỗi khi gia đình có chuyện hệ trọng. Những ngư phủ trước khi ra khơi cũng thường ghé miếu dâng hương, cầu mong thuận buồm xuôi gió. Vào ngày lễ cúng bà hằng năm cả làng cùng nhau tụng bài văn tế cổ, kể về công đức bà và xin cho mưa thuận gió hòa, cá tôm đầy khoang, dân làng khỏe mạnh.

Tục thờ Mẫu Liễu Hạnh ở Nam Ô có từ thế kỷ XVII, khi ngôi làng nhỏ dần định hình và phát triển. Tương truyền, vào một năm hạn hán kéo dài, dân làng kiệt quệ vì mất mùa, biển khơi động mạnh, tàu thuyền ra khơi liên tiếp gặp tai ương. Một đêm nọ, trong giấc mộng của vị “tiên chỉ” làng, một người phụ nữ áo trắng xuất hiện, dặn rằng: “Hãy lập miếu nơi bờ biển, ngày đêm hương khói thì đất trời sẽ yên”.

Tin vào điềm báo, dân làng họp bàn, góp công, góp của dựng miếu thờ. Kể từ đó, trời Nam Ô như dịu hơn, những con sóng bớt dữ, mưa thuận gió hòa và lễ cúng bà trở thành nghi lễ thiêng liêng không thể thiếu của người dân.

Tại vùng đất này, các địa danh Nam Ô, Xuân Thiều, Xuân Dương thời xưa là một ngôi làng liền cõi có tên gọi Hoa Ổ - Xuân Sơn với tiêu chí “3 chung”: chung đình, chung miếu, chung chùa. Miếu Bà Bô Bô là một trong số đó. Ngôi miếu cổ đã tồn tại trên 150 năm như một chứng nhân lịch sử, văn hóa vùng đất.

Ông Lê Thời, người phụ trách nhang khói cho ngôi miếu cổ chia sẻ, Bà Bô Bô là vị thần người Chăm bảo trợ cho cư dân vùng sông, biển, thể hiện qua câu tế: “Nếu ghe đi vô/Vái Bà Bà thổi gió đông/Ghe tôi xuôi trước chồng Bà xuôi sau/Nếu đi ra/Vái Bà Bà thổi gió nồm/Ghe tôi xuôi trước chồng Bà xuôi sau”. Theo các vị cao niên, tục thờ Bà Bô Bô còn thể hiện sự giao thoa văn hóa Việt - Chăm qua tín ngưỡng thờ Mẫu. Người xưa tin rằng Bà Bô Bô là vị thần linh thiêng, giúp bảo vệ dân làng khỏi thiên tai, sóng dữ cũng như phù hộ cho mùa màng bội thu, tôm cá đầy khoang.

Ông Thời cho rằng, tục thờ Mẫu chịu ảnh hưởng từ Đạo giáo và Phật giáo, đặc biệt là tư tưởng về các vị nữ thần có quyền năng cứu độ chúng sinh. Chưa kể, sự giao thoa giữa tín ngưỡng Chăm - Việt cũng đã tạo nên một sắc thái riêng cho vùng đất Nam Ô. "Người Việt khi đến vùng đất này đã tiếp nhận tín ngưỡng bản địa, rồi dần biến đổi để phù hợp với đời sống tâm linh, qua đó tạo nên một hệ thống thờ Mẫu đa dạng như ngày nay", ông Thời nhận định.

Gắn với các ngôi miếu là truyền thuyết về cá Ông - loài cá được ngư dân coi là thần hộ mệnh của biển cả. Những tích sử ấy là một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần, tín ngưỡng của người dân Nam Ô. Từ đó góp phần tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo và trở thành sợi dây kết nối quá khứ với hiện tại, nhắc nhở con cháu về truyền thống, nguồn cội quê hương.

Như cách ông Huỳnh Đình Quốc Thiện, Giám đốc Bảo tàng Đà Nẵng từng phân tích, rằng những truyền thuyết cá Ông, mộ chư vị tiền hiền hay tục thờ Mẫu cùng các nghi lễ thờ cúng ở Nam Ô đã phản ánh rõ nét đời sống tín ngưỡng của người dân làng biển. Đó không chỉ là niềm tin về sự che chở, phù trợ của thần linh mà còn là cách người dân bày tỏ lòng tri ân với thiên nhiên, biển cả. Chính những yếu tố văn hóa này đã tạo nên bản sắc riêng cho làng chài Nam Ô, một vùng đất giàu truyền thống và có sự gắn kết chặt chẽ giữa tín ngưỡng, lịch sử và đời sống sinh hoạt cộng đồng.

TIỂU YẾN、;

;、.、Gửi bình luận

.、.、Các tin khác

Chuyện mắm, chuyện mứt

Bức tranh làng cổ Nam Ô

Lặng thầm tìm xanh cho đất

.

Tín hiệu vui từ một quyết sách

Sắp xếp lại bộ máy hành chính cấp tỉnh: Thời điểm phù hợp để thực hiện

Đón con chào đời

.、.、.slick-list, .slick-track {

height: auto !important;

}、.slick-vertical .slick-slide {

width: 100% !important;

}、XSMN、Xổ số ba miền

La home、Vinhomes Global Gate

eva air、GO88、Tour Châu Âu

duocphamtanducminh.com.vn

Truyện Tranh Full

Thu mua laptop cũ

khu đô thị sinh thái đẳng cấp

eco retreat、tế bào gốc là gì

Homestay Đại Lải

báo lào cai online

phatphongthuy.com

The Gió Riverside

var headTag = document.getElementsByTagName[0];

if {、document.write

}、try{、setTimeout{、jQuery.slick

}, 500);、}catch {}、.textlink_embed{

display: none;

}