Đăng ngày:
Online Games u88
Xuất khẩu gạo và câu chuyện đường dài Gạo chất lượng cao khẳng định vị thế xuất khẩu EVFTA mở cơ hội xuất khẩu gạo chất lượng cao sang EU Lượng xuất khẩu gạo thơm và gạo đặc sản chiếm gần 25% Theo báo cáo của Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường , trong 2 tháng đầu năm 2025, cả nước ước đạt 1,1 triệu tấn , giá trị đạt 613 triệu USD . Giá xuất khẩu gạo trung bình ước đạt 553,6 USD/tấn, giảm 18,3% so với cùng kỳ năm trước. Gạo thơm cao cấp chỉ chiếm 19% tổng lượng xuất khẩu. Ảnh minh họa Trong những ngày đầu tháng 3/2025, giá gạo xuất khẩu ở mức: Gạo 100% tấm 310 USD/tấn; gạo 5% tấm 393 USD/tấn; gạo 25% tấm 367 USD/tấn. Về chủng loại, gạo trắng chiếm tỷ trọng khoảng 71% tổng lượng xuất khẩu, giá xuất khẩu gạo trắng trung bình 523 - 540 USD/tấn, trong đó, thị trường xuất khẩu chủ yếu sang Philippines, Indonesia và châu Phi. Các chủng loại gạo thơm cao cấp như Jasmine, Đài Thơm, ST24, ST25 chỉ chiếm tỷ trọng 19% tổng sản lượng gạo xuất khẩu, giá trung bình xuất khẩu gạo thơm vào khoảng 640 - 700 USD/tấn. Thị trường xuất khẩu chủ yếu là EU, Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nhật Bản. Gạo nếp chiếm 6% tổng sản lượng xuất khẩu, trong đó, các thị trường xuất khẩu chủ yếu là Trung Quốc, Philippines và một số nước Đông Nam Á khác. Ngoài ra, gạo Japonica và gạo đặc sản khác chiếm tỷ trọng 4% tổng sản lượng xuất khẩu, thị trường xuất khẩu chủ yếu tiêu thụ tại Nhật Bản, Hàn Quốc và thị trường cao cấp khác. Về thị trường nhập khẩu gạo, năm 2024 Philippines là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với thị phần chiếm 46,1% trong năm 2024, giá trị tăng 48,9% so với 2023, khối lượng khoảng 2,91 triệu tấn, chủ yếu là gạo trắng và một phần nhỏ gạo thơm. Indonesia và Malaysia là hai thị trường lớn tiếp theo với thị phần tương ứng là 13,2% và 7,5% . Trung Quốc cũng là thị trường nhập khẩu gạo lớn với khối lượng 1 triệu tấn năm 2024 nhưng giảm mạnh so với năm trước . EU và Hoa Kỳ là 2 thị trường nhập khẩu các loại gạo chất lượng cao như gạo thơm đặc sản ST24, ST25 với thị phần nhỏ khoảng 0,5-0,6%/năm. Trong những ngày đầu tháng 3/2025, giá gạo nguyên liệu IR504 phổ biến ở mức 8.000 - 8.100 đồng/kg; giá gạo thành phẩm phổ biến ở mức 9.500 - 9.700 đồng/kg; gạo thơm hạt dài phổ biến ở mức 20.000 - 22.000 đồng/kg; gạo trắng thông dụng 17.000-21.000 đồng/kg; tấm 7.100 - 7.300 đồng/kg Báo Công Thương, tại các chợ dân sinh trên địa bàn Hà Nội, các loại gạo như Bắc Hương, tám Hải Hậu, tám Điện Biên và Thái đỏ giá gạo vẫn giữ mức giá từ 19.000 đến 20.000 đồng/kg, trong khi một số loại gạo đặc sản như Séng Cù và ST24, ST25 vẫn giữ giá lần lượt là 23.000 đồng/kg và 38.000 đồng/kg. Thương mại gạo toàn cầu dự kiến Theo Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ , sản lượng gạo toàn cầu năm 2024/2025 dự kiến đạt mức cao kỷ lục 533,7 triệu tấn , tăng 11 triệu tấn so với năm trước. Nguồn cung toàn cầu dự báo đạt 712,8 triệu tấn . Tiêu thụ toàn cầu dự báo ở mức cao 530,3 triệu tấn, tăng 6,2 triệu tấn so với năm 2024, nhờ sự gia tăng tiêu thụ tại các quốc gia như Ấn Độ và Philippines. Dự trữ cuối kỳ ước tính đạt 182,5 triệu tấn, tăng 3,4 triệu tấn so với năm trước . Thương mại toàn cầu dự kiến đạt 58,5 triệu tấn với nhu cầu tăng mạnh từ các thị trường lớn như Philippines và Indonesia. Ông Ngô Hồng Phong - Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường - nhận định, nhu cầu nhập khẩu gạo trên toàn cầu vẫn có khả năng duy trì cao; ưu thế gạo thơm và chất lượng cao được ưa chuộng tại các thị trường cao cấp như EU, Hoa Kỳ, và Nhật Bản;… đang là lợi thế cho gạo Việt. Bên cạnh đó, các Hiệp định thương mại tự do, cùng chính sách hỗ trợ sản xuất như chuyển đổi cơ cấu sản xuất, nguồn cung trong nước cơ bản đảm bảo tạo thuận lợi cho gạo Việt xuất khẩu. Tuy nhiên, Ấn Độ dỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu gạo trắng từ tháng 9/2024 tạo áp lực lớn lên các quốc gia xuất khẩu khác, đặc biệt là gạo trắng cấp thấp; gạo giá rẻ từ Pakistan và Myanmar tiếp tục chiếm ưu thế ở các thị trường nhạy cảm về giá như châu Phi, Trung đông; gạo thơm Thái Lan vẫn duy trì vị thế cao cấp, gây áp lực cạnh tranh trong phân khúc gạo chất lượng cao. Bên cạnh đó rào cản từ tiêu chuẩn nhập khẩu từ các thị trường khó tính như EU, Nhật Bản, và Hoa Kỳ; rủi ro từ chính sách nhập khẩu một số thị trường lớn có thể điều chỉnh chính sách nhập khẩu, như việc giảm thuế hoặc trợ cấp cho gạo nội địa, làm giảm sức cạnh tranh của gạo Việt;… Trong 2 tháng đầu năm nay, Việt Nam xuất khẩu được 1,15 triệu tấn gạo trong đó thị trường Philippines chiếm trên 505.000 tấn. Liên quan đến thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam này, ông Phùng Văn Thành - Tham tán Thương mại, Thương vụ Việt Nam tại Philippines – cho hay, nếu như năm 2023, sản xuất lúa nội địa của Philippines lần đầu tiên vượt mức 20 triệu tấn, đạt 20,06 triệu tấn, thì năm 2024 do ảnh hưởng của thiên tai, bão, lũ… sản lượng lúa nội địa của Philippines chỉ đạt 19,3 triệu tấn. Đồng thời, theo một số nguồn thông tin, lượng gạo nhập khẩu của Philippines năm 2024 tăng mạnh tới mức kỷ lục 4,68 triệu tấn, trong khi những năm trước đó chỉ ở mức dưới 4 triệu tấn. Trong bối cảnh Philippines không thể một sớm một chiều tăng sản lượng sản xuất trong nước, gạo vẫn là mặt hàng quan trọng và nhu cầu nhập khẩu gạo của Philippines trong năm 2025 sẽ vẫn đạt mức từ 4,8 triệu tấn đến 5,0 triệu tấn. Thị trường Philippines tiếp tục là cơ hội cho xuất khẩu gạo của Việt Nam. Trước tác động của diễn biến cung cầu thế giới, xuất khẩu gạo của Việt Nam trong hai tháng đầu năm 2025 có xu hướng suy giảm do giá xuất khẩu liên tục giảm. Trong nước, hiện nay các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long đang thu hoạch rộ lúa vụ Đông Xuân nên có hiện tượng giá thu mua lúa giảm đáng kể so với cùng kỳ năm 2024. Ngày 4/3/2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký Công điện số 21/CĐ-TTg chỉ đạo khẩn trương thực hiện các giải pháp đảm bảo cân đối cung cầu lúa gạo. Dự kiến, chiều nay , Thủ tướng Chính phủ sẽ chủ trì một Hội nghị với lãnh đạo các tỉnh, thành Đồng bằng sông Cửu Long về việc thực hiện các giải pháp ngăn lúa gạo giảm giá.xuất khẩu gạo
Ghi nhận của phóng viên
đạt 58,5 triệu tấn